Saturday, January 10, 2009

Thương hiệu thành phố và ước mơ đầu năm

Khi đọc lại ”Ai đã đặt tên cho dòng sông” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân dịp bút ký đậm chất thơ này được đưa vào sách ngữ văn lớp 12, bỗng nhiên tôi thấy chạnh lòng.

Thành phố nơi tôi đã sống gần nửa đời người cũng có một dòng sông chảy qua nhưng không biết đến bao giờ sông Sài gòn mới được một ai đó viết cho những lời tha thiết như Hòang Phủ đã viết cho sông Hương, dù ai cũng dễ dàng nhận thấy tầm quan trọng của dòng sông này trong lịch sử hơn 300 năm của thành phố. Không chỉ có tàu bè ngược xuôi, sông Saigon cũng có những khúc sông nước trong vắt rọi bóng dừa xanh hai bên bờ, những giề lục bình hoa tím ken lá xanh bập bềnh trôi, dòng sông hiền hòa đã chứng kiến bao biến cố lịch sử, bao thăng trầm của những người dân nơi đây từ thời Gia Định trấn, Thủ đô Sài gòn tới Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay.

Đi tìm ấn tượng Saigon

Mà không chỉ có dòng sông, dường như thành phố nó chảy qua cũng không ghi được nhiều ấn tượng trong lòng du khách. Những bài hát đáng nhớ về Saigon lẫn thành phố Hồ Chí Minh có lẽ chỉ đếm được trên một bàn tay, phổ biến nhất vẫn là câu hát ”Saigon đẹp lắm, Saigon ơi!” của nhạc sĩ Y Vân. Cho dù có biên khảo ”Saigon năm xưa” của học giả Vương Hồng Sển, ”Bến Nghé xưa” của nhà văn Sơn Nam nhưng nếu phải giới thiệu về thành phố trong một câu ngắn gọn, chắc nhiều người Saigon chính hiệu cũng thấy lúng túng.

Khi gặp những người nước ngoài từng ghé thăm thành phố, tôi hay hỏi họ điều gây ấn tượng mạnh nhất là gì. Các câu trả lời thường giống nhau: xe cộ nhìn muốn chóng mặt, dòng người qua lại như không bao giờ dứt (cũng may chưa nghe họ nhắc tới cảnh ngập lụt hay kẹt xe) và địa đạo Củ chi. Có thể vì thời gian thăm thành phố quá ngắn ngủi, cũng có thể do chúng ta chưa xây dựng được một hình ảnh nào vừa dễ nhớ vừa phù hợp và tương xứng với tầm vóc một thành phố 10 triệu dân, cũng là trung tâm kinh tế, thương mại, giải trí, truyền thông của cả nước.

Nếu Hà nội, Hải Phòng, Huế, Đà lạt, Cần thơ … được gắn liền với những biệt hiệu phản ánh lịch sử hay đặc tính địa phương như Thăng Long – đất rồng bay, thành phố hoa phượng đỏ, đất Thần Kinh, xứ hoa đào, Tây đô…thì thành phố ta vẫn chưa có được một biểu tượng chính thức hay hình ảnh nào rõ rệt cho dù đây là một trong những điều cần thiết để thu hút du khách và khiến người ta dễ nhớ. Không phải ngẫu nhiên mà những thành phố lớn trên thế giới đều có biệt danh như Vienne - thủ đô âm nhạc, Paris – Kinh đô ánh sáng, Thượng Hải – Paris Đông phương, New York – quả táo lớn, Rio de Jainero – thành phố lễ hội, Seoul – Thành phố không bao giờ ngủ … cho dù xuất phát từ quan điểm chủ quan hay thực tế khách quan thì những mỹ từ ấy cũng nghiễm nhiên trở thành ”thương hiệu”.

Gian nan xây dựng thương hiệu

Tuy nhiên thương hiệu của một thành phố không phải bỗng dưng mà có hay do ”tự phong” mà là kết quả của một quá trình xây dựng, phát triển và gìn giữ. Thái lan đã xây dựng thành công thương hiệu ”đất nước của những nụ cười”, tạo được ấn tượng tốt với thế giới cùng xóa đi những hình ảnh của công nghệ du lịch ”4 chữ S” (sun, sand, sea, sex) trong thập niên 70. Đáng nói là hầu như mọi người Thái đều nỗ lực để gìn giữ và phát triển thương hiệu này, nên cho dù Bangkok biểu tình ầm ĩ suốt 7 tháng trời, ngành du lịch Thái vẫn đón được 15 triệu khách trong năm 2008. Hãng lữ hành Hannibal – Marco Polo tại Bắc âu để quảng cáo tua Việt Nam đã dùng hình ảnh một cô gái đội nón lá tươi cười và lời chú thích ”người Việt cũng hay cười như người Thái”, nghe thật buồn!

Trong 10 năm qua thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ của công nghiệp du lịch. Có thể nói thế kỷ 21 là thế kỷ du lịch khi chỉ trừ những nước Phi châu có chiến tranh, hầu như tất cả các quốc gia, dù rộng lớn hay nhỏ bé, giàu có như Mỹ, Canada, Nhật, Đức… hay nghèo như Lào, đều chú trọng phát triển du lịch. Đến như đảo Greenland xa xôi lạnh lẽo cũng tổ chức tua.

Theo tổ chức World Tourism Organization (UNWTO) thì trong 8 tháng đầu năm 2008 số người đi du lịch nước ngoài là 642 triệu, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2007. Tuy nhiên do ảnh hưởng của suy thoái tài chính số du khách năm 2009 sẽ không tăng so với năm 2008, du khách cũng có khuynh hướng đi gần hơn hoặc chọn những tuyến nội địa, thời gian lưu lại cũng sẽ ngắn hơn để giảm chi phí. Cạnh tranh giữa các nước xem công nghiệp du lịch là trọng điểm sẽ khốc liệt hơn, thương hiệu của một nước hay một thành phố lại càng giữ vai trò quan trọng hơn bao giờ.


”Hòn ngọc Viễn đông” khi nào tỏa sáng?
Những năm 50, 60 Saigon đã được mệnh danh là ”Hòn ngọc Viễn đông”. Đáng tiếc là trong những năm 70-80 thành phố đã mất đi vị thế trước đây trong khi Singapore, Bangkok, Kuala Lumpur, nhanh chóng vượt lên trước. Sự phát triển nhanh chóng của thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm trở lại đây trong bối cảnh cả nước đang cố gắng ”vượt vũ môn” để hóa rồng, chính là cơ sở để chúng ta nghĩ đến việc khôi phục và nâng danh hiệu lên thành thương hiệu cho xứng với tầm quan trọng của thành phố đối với cả nước và khu vực. Hẳn sẽ có ý kiến cho rằng ”Hòn ngọc Viễn đông” là chuyện của quá khứ nhưng thành phố nào mà không có sự kế thừa truyền thống, như Hà nội tiếp nối Thăng Long hay Huế từ Phú Xuân mà có.

Cũng như hội họa phải được ngắm từ xa, thành phố trong trí nhớ những người đi xa dường như đẹp hơn, xanh hơn, ít bụi và nắng hơn, dòng sông có vẻ thơ mộng hơn và nhịp sống tất bật, hối hả của thành phố cũng trở nên dễ thương hơn. Cho nên nếu được ước một điều cho năm mới, tôi sẽ ước thành phố với bao nhiêu người thân yêu của tôi sẽ lại có một ngày tự hào với thương hiệu ”Hòn ngọc Viễn đông”.

Viết tại Copenhagen 5/12/2008
Quế Viên

(Doanh nhân Saigon cuối tuần – Xuân Kỷ Sửu)

Thursday, January 1, 2009

Những mùi hương trong miền ký ức


Mỗi khi nói về Hà Nội, người ta hay nhắc tới mùi hoa sữa nồng nàn, nhẹ nhàng hơn thì có mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ; Huế thoảng mùi hoa sen, Đà Lạt có mùi thông thanh khiết.

Chỉ có Sài Gòn chẳng được gắn với một mùi hương nào mà chỉ nghe than là lắm khói nhiều bụi. Nhưng trong miền ký ức của tôi, thành phố nơi tôi lớn lên vẫn đầy những mùi hương.

Ngày bé tôi học ở trường tiểu học gần nhà. Trường không lớn lắm nhưng sân khá rộng, giữa sân có căn nhà hình lục giác, chúng tôi thường gọi là nhà tròn. Sân trường có nhiều cây phượng to, muà hè hoa nở đỏ rực, bọn con gái chúng tôi lấy cánh phượng ép thành con bướm, con trai thì lén trèo cây hái trái phượng làm kiếm đánh nhau.

Nhưng tôi không thích mùi hoa phượng hăng hăng bằng hoa cây sao già trồng quanh trường. Những chùm hoa sao màu vàng nhỏ xinh như hoa ngâu, thoang thoảng thơm, khi nở xòe ra thành những ngôi sao năm cánh bé xíu. Đến mùa, hoa sao rụng đầy trên tóc bọn học trò chơi nhảy dây, lò cò, đánh đáo…trước cổng trường.

Ngôi trường ấy đã trở thành trường cấp I-II từ lâu, sân trường chỉ còn lại nhà tròn và một cây phượng - có lẽ trường học thì không thể thiếu bóng hoa phượng, nhưng những cây sao vàng thì không còn nữa. Giờ ra chơi tôi đi qua trường cũng không thấy các học trò nhỏchơi đùa mà chỉ thấy chúng mải chúi đầu vào một cuốn sách hay một cuốn vở.

Lớn hơn một chút, chiều tối tôi hay cùng các bạn tập chạy xe đạp trên những con đường sau trường học. Trời mát dịu, gió đưa thơm ngan ngát mùi hoa nguyệt quế, ngọc lan, dạ hương…từ những mảnh sân vườn nhỏ. Càng về tối hương hoa càng nồng nhưng chúng tôi không dám chơi lâu, phần sợ về nhà bị mắng, phần vì bị bọn con trai dọa là khuya hay có ma từ bệnh viện Bình Dân...ra chơi, tuy đứa nào cũng thầm mong có ngay được…nhìn thấy ma.

Trong cư xá bây giờ những mảnh sân ngày càng bé lại, những cây ngọc lan, dạ hương phải nhường diện tích cho những ngôi nhà ngày càng to hơn, cao hơn. Thiên nhiên thu gọn lại trong những chậu phong lan treo trên sân thượng các nhà. Chị tôi viết thư thỉnh thoảng lại nhắc đến mấy chậu mai vàng, cây nguyệt quế càng già càng nhiều hoa…như nói đến người trong gia đình.

Trong trí nhớ của tôi Sài Gòn không khét mùi xăng mà thơm mùi lá mát rượi phả từ những hàng cây hai bên đường sau cơn mưa, mùi cỏ ướt sương trong vườn hoa Vạn Xuân, vườn Tào Đàn lúc sáng sớm, mùi bắp nướng người ta hay bán trên vỉa hè mỗi chiều và nhất là mùi mía hấp buổi tối. Ông hàng mía hấp hay đi qua nhà tôi sau giờ cơm tối, trên xe ba gác cắm ngất nghểu hai cây mía, có mùi mía hấp ngọt lịm thay cho lời rao. Mỗi khi ông mở nắp nồi lấy ra một khúc mía đỏ tím, hương mía bay khắp không gian, chỉ mới nghe đã thấy mát tới tận cổ.

Tôi cũng thích ngửi mùi ca phê rang. Đầu đường nhà tôi khi đó có 3 quán cà phê nhưng đông khách nhất là quán ông Năm. Quán khá to, có bảng hiệu cẩn thận nhưng người ta cứ quen gọi là quán ông Năm, còn ông Năm thì được gọi là ông Năm cà phê. Quán bán cả cà phê phin lẫn cà phê lẫn cà phê vợt như những “tiệm nước” của người Hoa. Cứ chiều thứ bảy là thấy ông Năm đặt trước cửa tiệm cái thùng gang hình ống to tướng rang cà phê trên củi cháy đỏ rực. chẳng biết ông ta bỏ thêm vào đó cái gì mà thơm không thể tưởng, sực nức mọi nhà.

Khi tôi học tiểu học những ngày cuối tuần thỉnh thoảng đươc cha tôi dẫn đi chơi xa. Thủ Thiêm khi đó rặt một màu xanh dừa nước, những khu vườn Bà Điểm ngai ngái hương cau nhưng tôi thích nhất là những ruộng hoa lài đang nở. Những thân lài phủ đầy hoa trắng trông như những đám bông gòn phủ trên mặt đất, không gian trĩu một mùi hương hoa lài, đến khi về tới nhà tưởng như mùi hương vẫn còn vương trên tóc, như những ngày rằm theo mẹ lên chùa áo đầy mùi nhang trầm. Không biết những mảnh vườn trắng hoa lài giờ có con không hay chỉ còn cái tên Vườn Lài trên bản đồ thành phố.

Những mùi hương thời thơ ấu đó, tôi đã quên bẵng đi một thời gian rất lâu. Mà nhớ cũng khó khi mỗi lúc ra đường nếu không chui vào taxi hay xe hơi thì lại bịt khẩu trang kín mít. Và trong nhịp sống hối hả của một thành phố đang phát triển mỗi phút mỗi giờ, 24 tiếng đồng hồ luôn chừng qúa ngắn để người ta có thể phung phí cho một mùi hương. Nhưng đến một chiều, ở một nơi rất xa thành phố, tự nhiên tôi thấy thiếu thiếu một cái gì...

Truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam có một câu kết thật hay “mỗi mùa nàng lại cài một đóa hoàng lan trên mái tóc để tưởng nhớ mùi hương”. Tôi tin nàng sẽ còn vương vấn mãi mùi hương đó, dù đến một ngày, có thể không còn cây hoàng lan. Và nếu không có mùi hương nào để nhớ, chắc nàng sẽ còn buồn hơn nhiều, rất nhiều...

Quế Viên
Đan Mạch, mùa đông 2007

(Tuổi trẻ - Văn Hóa –Giải trí
Thứ Ba, 05/02/2008)
Kinh Tà Bang của mỗi người

Kinh Tà Bang là tên một truyện ngắn của nhà văn Bình Nguyên Lộc mà tôi đã đọc từ rất lâu, dễ đến 40 năm trước, cũng chẳng hiểu vì sao vẫn còn nhớ được tới giờ này.

Trong truyện có một chị từ thôn quê lên thị xã giúp việc cho một gia đình nọ. Nhớ nhà, chị ta cứ nói mãi về một ngôi làng hẻo lánh có cái tên nửa Việt nửa Khơme là “Kinh Tà Bang”. Mà quê chị nào có đẹp đẽ, sung sướng gì cho cam, đến trâu bò cũng phải ngủ trong mùng để khỏi bị bầy muỗi chích. Đại loại toàn những chuyện như thế, tới nỗi người nghe phải kêu lên “ứ hự, nghe mà bắt mệt!”.

Cô em họ tôi sống ở nước ngoài đã lâu. Khi hai vợ chồng về Việt Nam chơi, anh chồng nhất định dẫn vợ về quê ngoại mãi tận Hải Dương để chỉ cho xem cái ao trong vườn nhà bà ngoại, nơi thuở nhỏ anh hay xuống tập bơi. Từng được nghe chồng tả “nước trong vắt, gió thoang thoảng mùi hương sen”, cô vợ ngạc nhiên khi nhìn thấy một cái ao bé tí nước đục ngầu, lá sen tàn đen thui, suýt nữa thì kêu lên “sao bẩn thế!”, chợt nhìn thấy mắt chồng mình rưng rưng. Thì ra cái ao đâu chỉ đơn giản là một cái ao.

Trước Tết Bính Tuất, tôi tình cờ trông thấy ở khu chợ chuyên doanh cây cảnh Tehran một cây quất (tắc). Ông chủ hàng nói cây quất này do một bà người Nhật dặn tìm đã lâu nhưng chẳng biết sao đợi mãi không thấy đến lấy. Người mua đã mừng mà người bán cũng mừng vì chẳng biết làm gì với cái cây cao chưa đầy hai gang tay, có đúng ba quả xanh ngắt bé tí tẹo. Tôi đem về chăm sóc cẩn thận, cây quất xanh tốt hơn một chút. Trước khi rời Tehran, tôi đem đến tặng Đại sứ quán Việt Nam tại đây. Ít lâu sau chị Noãn, Đại Biện Đại Sứ Quán, vui vẻ báo cho biết cây quất đã nảy nhiều lộc mới, Tết Đinh Hợi thế nào cũng ra nhiều quả.

Mấy hôm nay tôi cũng đang đến các trại ươm cây tại Đan Mạch để tìm một cây quất đẹp. Khi không có mai, đào thì một chậu quất cũng mang lại hình ảnh của cái tết quê hương. Ông hàng xóm của gia đình tôi từng đi nhiều nơi nhưng chưa đến Đông Dương bao giờ nên hay hỏi về Việt Nam. Hôm qua ông bảo tôi “cứ nghe chị nói thì Việt Nam là nơi tốt nhất thế giới”. Tôi cãi là nào tôi có nói thế, xứ tôi còn biết bao nhiêu khó khăn, ông ta cười “ngay khi nghe chị nói về những khó khăn của quê mình, tôi cũng cảm thấy đối với chị đó là nơi tốt đẹp nhất”.

QUẾ VIÊN
23 Tết Mậu Tý
Tuổi trẻ - Văn học
Thứ Tư, 14/02/2007, 06:42 (GMT+7)